Lực lượng tham chiến hai bên Chiến_dịch_Mãn_Châu_(1945)

Quân đội Liên Xô

Nguyên soái Liên Xô A.M. Vasilievsky

Đầu tháng 6 năm 1945, Nguyên soái Liên Xô A.M. Vasilievsky được Bộ Tổng Tư lệnh Tối cao Hồng quân Liên Xô (STAVKA) chỉ định làm Đại diện của STAVKA tại Viễn Đông. Tuy nhiên, do quy mô lẫn tính phức tạp của chiến dịch, nên đến ngày 30 tháng 7, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Liên Xô tại Viễn Đông được thành lập do Nguyên soái A.M. Vasilevsky làm Tổng Tư lệnh, Thượng tướng S.P. Ivanov làm Tham mưu trưởng[42].

Ngoài lực lượng của Quân khu Viễn Đông và Quân khu Siberia được bổ sung người, đổi mới các trang bị hiện đại nhất[43], thì Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Liên Xô còn chuyển 3 Tập đoàn quân hợp thành, một Tập đoàn quân Xe tăng, một Quân đoàn Cơ giới hoá từ châu Âu sang Viễn Đông. Các đơn vị được chọn đều căn cứ trên kinh nghiệm tác chiến với địa hình tương tự: như Tập đoàn quân Xe tăng 6 và Tập đoàn quân 53 từng chiến đấu ở vùng núi Karpat được bố trí ở hướng Đại Hưng An, Tập đoàn quân 39 và Tập đoàn quân 5 với kinh nghiệm công kiên ở Konigsberg được chuyển qua Đông Mãn Châu[44].

Việc chuyển quân cần tới 1.692 chuyến tàu hỏa với gần 136.000 toa xe trên tuyến đường sắt xuyên Siberi dài hơn 5.000 km từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945. Để giảm tải cho đường sắt, quân nhân, trang bị được đổ xuống Chita rồi hành quân đường bộ đến 600 km tới địa điểm tập kết [45]. Để giữ bí mật, việc chuyển quân được nguỵ trang tối đa, tập kết tương đối xa biên giới, các sĩ quan cao cấp đều sử dụng tên giả, đeo quân hàm cấp thấp. Mặc dù việc chuyển quân khó có thể bí mật hoàn toàn, nhưng mục tiêu là không để phía Nhật Bản dự đoán được quy mô thật[46].

Với những kinh nghiệm được tích luỹ sau 4 năm chiến tranh trước đó, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Liên Xô đã mạnh dạn tái cấu trúc các đơn vị nhằm bảo đảm sức chiếu đấu tối ưu trong điều kiện tác chiến và địa hình hành quân cụ thể[47]. Các đơn vị thuộc Phương diện quân Viễn Đông 1 được tăng cường hoả lực pháo để công kiên; từng tiểu đoàn chiến đấu trên địa hình lầy lội đều được tăng cường công binh cầu đường; các đơn vị của Phương diện quân Zabaikal đều được tăng cường xe thiết giáp hoặc xe tải để vận động tốc độ cao[47]; đơn vị chủ công là Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 6 được biên chế lại, gồm 1 Quân đoàn xe tăng, 2 Quân đoàn cơ giới hoá, thêm bộ binh và các đơn vị hỗ trợ để phù hợp với điều kiện tác chiến độc lập[48]. Với cấu trúc dẻo như vậy, từng đơn vị của Quân đội Liên Xô có khả năng chiến đấu cơ hữu rất cao.

Ðạo quân Quan Ðông

Bài chi tiết: Đạo quân Quan Đông
Đại tướng Yamada Otozō.

Ðược thành lập từ năm 1919 để bảo vệ Quan Ðông, đến năm 1932 thì Đạo quân Quan Đông nhận trách nhiệm bảo vệ toàn bộ lãnh thổ Mãn Châu. Trong suốt thời gian tồn tại, Ðạo quân này được coi làm lực lượng ưu tú của Quân đội Nhật Bản, và luôn là mối lo của Liên Xô ở Viễn Ðông[49].

Ðến giữa năm 1945, biên chế chính thức của Ðạo quân Quan Ðông gồm 3 phương diện quân (1, 3, 17), 2 quân đoàn độc lập (4, 34), 2 quân đoàn không quân và binh lực tương đương 1 tập đoàn quân thiếu, do Đại tướng Yamada Otozō làm Tư lệnh và Trung tướng Hata Hikosaburo làm Tham mưu trưởng. Dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh Đạo quân Quan Đông còn có các đơn vị của Mãn Châu Quốc, Nội Mông và Cụm quân Tuy Viễn của Quận vương De Wang[50]. Mặc dù được trang bị kém so với các đơn vị Nhật Bản, nhưng lực lượng này cũng có tới 8 sư đoàn bộ binh, 7 sư đoàn kỵ binh và 15 lữ đoàn bộ binh - kỵ binh độc lập. Tính toàn bộ, đạo quân Quan Ðông có 1.217.000 người, gồm 993.000 quân Nhật, 170.000 quân Mãn Châu Quốc và 44.000 quân của quận vương Demchugdongrub. Vũ khí trang bị có 1.155 xe tăng, 5.360 pháo, 1.800 máy bay và 25 tàu chiến thuộc Giang đội Tùng Hoa[4]. Trong trường hợp khẩn cấp, Bộ Tư lệnh Quân đội Nhật Bản tại Đông Bắc Trung Quốc có thể điều động thêm 2 quân đoàn từ Phương diện quân Bắc Chi Na đóng tại khu vực Bắc Kinh, gồm từ 6 đến 8 sư đoàn để chi viện cho Đạo quân Quan Đông.[51]

Tuy nhiên, Đạo quân Quan Đông có lượng nhưng thiếu chất. Suốt cuộc chiến tranh Thái Bình Dương trước tháng 8 năm 1945, vì Mãn Châu không có chiến sự nên các đơn vị tinh nhuệ được cắt chuyển dần sang các chiến trường khác. Đến giữa năm 1945, phần lớn các sư đoàn của Đạo quân Quan Đông đều mới được thành lập từ quân dự bị, tân binh đang huấn luyện và các đơn vị nhỏ hơn đã bị bòn rút[4].

Ngoài chất lượng huấn luyện thấp, thì chất lượng trang bị cũng yếu. Các đơn vị đều phương tiện di chuyển và vũ khí chống tăng: pháo chống tăng 37mm được trang bị là loại từ Thế Chiến thứ Nhất, không có hiệu quả trước giáp dày của xe tăng hạng trung T-34[52]. Số xe tăng của các lữ đoàn xe tăng cũng đã lạc hậu cả về giáp lẫn hỏa lực[52]. Do đó, hầu hết các sư đoàn đều có tỷ lệ sẵn sàng chiến đấu thấp[52], làm ảnh hưởng lớn tới phương án phòng thủ của Ðạo quân Quan Ðông.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Mãn_Châu_(1945) http://www.chinadaily.com.cn/en/doc/2003-10/17/con... http://foreignpolicy.com/2013/05/30/the-bomb-didnt... http://ww2db.com/photo.php?source=all&color=all&li... http://usacac.army.mil/cac2/cgsc/carl/download/csi... http://kiuchi.jpn.org/vn/nobindex.htm //www.worldcat.org/issn/0195-3451 http://militera.lib.ru/h/shihsov_av/10.html http://militera.lib.ru/memo/other/akiyama_h/index.... http://rkka.ru/maps/tv25.gif http://www.sakhalin.ru/Region/WORLDWAR2/KotonMap.h...